Cây keo nổi tiếng khắp thế giới, vì nó không chỉ mọc ở hầu hết các quốc gia, mà còn là biểu tượng của một số quốc gia, cũng như là đối tượng của nhiều truyền thuyết và tác phẩm nghệ thuật, văn học.
Những cụm màu trắng hoặc vàng của loài cây quen thuộc với người hiện đại, nở vào tháng Năm, thực sự đã có lịch sử ngàn năm. Keo trang trí các khu vườn và nhà ở, được sử dụng trong y học và các nghi lễ tôn giáo. Có lẽ, không có loại cây nào trên hành tinh được các đại diện của các nền văn minh và văn hóa khác nhau tôn kính trong nhiều thế kỷ hơn cây keo. Bức ảnh không thể truyền tải hết vẻ đẹp và hương thơm của loài cây này, ngày nay có hơn 800 loài.
Lịch sử của Acacia
Sự độc đáo của loài cây này đã được người Ai Cập cổ đại chú ý, họ tin rằng nó đồng thời tượng trưng cho sự sống và cái chết, vì nó nở hoa với màu trắng và đỏ. Đối với họ nó là biểu tượng của thần mặt trời, hồi sinh sự sống. Neith, nữ thần chiến tranh và săn bắn, sống trên vương miện của nó.
Trong nhiều nền văn hóa, cây keo tượng trưng cho sự trong trắng và tinh khiết, và những cư dân cổ đại ở Địa Trung Hải tin rằng gai của nó xua đuổi tà ma, và trang trí nhà cửa của họ bằng những cành cây được hái. Và những người du mục đi qua sa mạc Ả Rập coi đó là điều thiêng liêng và tin rằng ai bẻ cành cây này sẽ chết trong vòng một năm.
Acacia, được mô tả trong Torah, là biểu tượng của sự thánh thiện đối với người Do Thái cổ đại. Vì vậy, con tàu của Nô-ê, bàn thờ của Đền thờ Do Thái và đền tạm, nơi lưu giữ Hòm Giao ước ban đầu được làm từ gỗ của nó.
Đối với những người theo đạo Cơ đốc thời Trung cổ, cây này tượng trưng cho sự thuần khiết của suy nghĩ và sự ngây thơ, vì vậy những ngôi nhà được trang trí bằng những cành cây của nó. Dầu keo được sử dụng trong các nghi lễ bởi các hội kín khác nhau, và các thầy tế lễ đã bôi lên bàn thờ và lư hương bằng nó.
Nơi phát triển
Cây keo thuộc họ đậu, chiều cao có thể đạt từ 25-30 mét. Quê hương của loài cây này được coi là Bắc Mỹ, mặc dù hầu hết các loài của nó mọc ở các khu rừng nhiệt đới và cận nhiệt đới của Châu Phi, Châu Á, Mexico và Úc.
Tùy theo vị trí, loại cây này có thể vừa là cây, vừa là cây thân bụi. Nó đã được trồng ở các nước Châu Âu từ thế kỷ 18 vì đặc tính chữa bệnh, làm đẹp và cho gỗ chắc. Ngày nay, ở nhiều thành phố của Nga và CIS, bạn có thể thấy loài phổ biến nhất của nó - Robinia, được biết đến với cái tên châu chấu trắng. Cây có khả năng chịu nhiệt độ dưới 0 tốt như keo bạc, hay còn gọi là mai dương. Châu chấu trắng mọc thậtchỉ có trong các khu rừng nhiệt đới của Châu Phi.
Xem mô tả
Bất kể cây mọc ở đâu, cây keo đều có những đặc điểm chung cho cả gia đình:
- Cô ấy có bộ rễ khỏe, rễ chính ăn sâu và phân nhánh gần bề mặt đất hơn. Điều này giúp cây không chỉ chiết xuất nước mà còn cả các nguyên tố vi lượng hữu ích.
- Thân cây có thể cao từ 12 đến 30 mét với chu vi 1,2-2 m. Màu sắc của vỏ thay đổi từ xám nhạt khi còn non đến nâu khi trưởng thành, và cấu trúc có bề mặt theo chiều dọc ngạnh.
- Hầu hết các loài acitas được phân biệt bởi các lá hình trứng, thu thập trên một cuống lá dài, xen kẽ từ 7 đến 21 chiếc. Phần bên ngoài của lá có màu xanh lục, trong khi phần bên trong có thể có màu bạc hoặc xanh xám. Sự hiện diện của gai cũng có ở hầu hết các đại diện của loài này, mặc dù có những trường hợp chúng hoàn toàn không có.
- Acacia (ảnh cho thấy cái này) có hoa lớn màu trắng hoặc vàng, được thu hái thành từng chùm, mặc dù cũng có những chùm hoa nhỏ ở dạng chùy và thậm chí là những nụ đơn lẻ.
- Quả của cây là một quả màu nâu có chứa 5-6 hạt đậu. Chúng nổi tiếng với các đặc tính y học và được sử dụng rộng rãi trong vi lượng đồng căn.
Đây là những đặc điểm chung cho hầu hết các thành viên của loài này, mặc dù vẫn có ngoại lệ.
Tua vít keo
Đây là loại cây phổ biến nhất ở các công viên và đường phố thành phố. Cây keo mặc dùthường và phát triển khá nhanh, đạt đến tuổi trưởng thành với tốc độ trung bình là 40 tuổi.
Với chiều cao 20 m và rộng 1,2 m, nó có vương miện không đối xứng và hoa màu trắng có mùi thơm dễ chịu, treo thành tua dài tới 20 cm. Thường thì một cây keo xoắn có thể có hai thân, nở hoa từ cuối tháng Năm đến đầu tháng Sáu, không yêu cầu chăm sóc và chịu được mùa hè khô hạn tốt. Các lá hình elip có màu xanh lục vào mùa hè và màu vàng tươi vào mùa thu. Chúng xuất hiện khá muộn, gần như đồng thời với những bông hoa.
Keo vàng
Nhỏ, chỉ cao tối đa 12 m, những cây này ngay lập tức gây chú ý. Keo vàng (Robinia pseudoacacia Frisia) có nhiều thân và lá màu vàng nhạt đẹp mắt hình elip. Trên các cành có gai ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo, tán lá xuất hiện muộn, gần như trước khi ra hoa: vào cuối tháng 5 - đầu tháng 6.
Cây này được phát hiện lần đầu tiên ở Hà Lan vào năm 1935. Nó nở hoa với những chùm hoa màu trắng có mùi thơm dài đến 20 cm, quả màu nâu và phẳng. Các lá mọc đối và mọc xen kẽ từ 7 đến 19 chiếc trên cuống lá.
Cây keo này không cần chăm sóc, mặc dù nó thích đất khô mùn. Trong đất ẩm ướt và nặng, nó có thể bị sương giá và chết.
Nón và ô bằng keo
Một trong những cây cổ thụ trong số những cây thuộc loài này là cây keo hình nón (Pseudoacacia Bessoniana). Nó sống đến 100 năm và phát triển chiều cao tới 20 mét, hình thành con cái. Thường có nhiều thùng.
Openwork rời khỏikhông đối xứng, vương miện có thể vừa không đối xứng vừa tự do, tròn trịa. Nó nở hoa không dày đặc, với những tua trắng thơm dài tới 20 cm. Từ 7 đến 19 lá hình elip màu xanh lục nở trên cuống lá. Hình thành quả dài tới 12 cm, ở dạng hạt đậu dẹt màu nâu. Cây keo này rất ưa nắng và chịu hạn rất tốt, không kỵ đất. Nếu bạn trồng một cây như vậy trong vườn, nên tránh đất nặng và ẩm ướt. Trong sương giá trên đất như vậy, rễ cây keo có thể bị hư hại nghiêm trọng.
Keo được tìm thấy ở Châu Phi và các sa mạc của Israel. Trên lục địa nóng bỏng, cô sống trong các savan và được tất cả cư dân của cô yêu quý, vì cô cho bóng mát, nhờ chiếc vương miện của cô, trông giống như một chiếc ô. Trên thực tế, đây là sự bảo vệ mang tính biểu tượng khỏi những tia nắng thiêu đốt, bởi vì các lá của nó quay theo chiều dọc về phía ngôi sao.
Cây có những chiếc gai nhọn lớn giúp bảo vệ nó khỏi vô số động vật ăn cỏ sống trên thảo nguyên. Nó nở ra với những bông hoa rất nhỏ với các nhị hoa dài thu thập trong một chùy. Có màu vàng hoặc trắng.
Theo truyền thuyết, chính từ cây keo ô, người Do Thái rời Ai Cập đã làm ra Con thuyền của Nô-ê.
Phố Keo
Thường xuyên nhất trong các cửa hàng chuyên doanh có một cây keo đường phố, cây con được bán trong các chậu hoa.
Pseudoacacia Monophylla hơi mẫn cảm với ô nhiễm môi trường, là loài cây sinh trưởng nhanh, không gai, cao tới 25 m. Các lá của cây keo này có hình lông chim và xen kẽ: lúc đầucuống lá nhỏ, nhưng gần cuối có thể dài tới 15 cm. Tán lá có màu xanh xỉn vào mùa hè và màu vàng vào mùa thu. Cần nhớ rằng lá rất độc.
Cành có thể ngoằn ngoèo hoặc nằm ngang, hơi nhô cao. Nó nở ra với những bông hoa lớn màu trắng, tập hợp thành từng chùm dài tới 20 cm với mùi thơm dễ chịu. Cây này ưa nắng và không kén thành phần của đất.
bàn chải lông keo
Tên gọi này dùng để chỉ cả loại cây thân gỗ cao tới hơn 2 mét, và loại cây tùy theo vùng trồng có thể cao từ 15 đến 20 m. Bộ rễ khỏe và mạnh những cành ngoằn ngoèo có gai giúp cây chống chịu gió tốt. Những loại keo này nở hoa to màu tím hoặc hồng rất đẹp, không có mùi thơm, được thu hái thành chùm từ 3-6 chiếc.
Tên của loài cây này là do chồi của nó được bao phủ bởi những sợi lông màu đỏ. Lá có màu xanh đậm vào mùa xuân và mùa hè, màu vàng vào mùa thu. Nếu một cây keo như vậy mọc trong vườn, nó sẽ thu hút sự chú ý với những bông hoa to và rực rỡ.
Không cần chăm sóc thêm, ưa nơi yên tĩnh và nhiều nắng, dễ chịu mùa hè khô hanh. Ngay cả đất cằn cỗi cũng phù hợp với em ấy.
Hồng keo
Robinia viscosa Vent. Cây có thể cao từ 7 đến 12 m nhưng tuổi thọ cónhỏ.
Vỏ màu nâu, nhẵn, cành có thể có gai nhỏ. Các chồi của cây được bao phủ bởi một khối dính, đó là tên gọi của nó. Hồng keo nở hoa to, dài tới 2-3 cm, hoa không mùi. Chúng được thu thập trong các bàn chải thẳng đứng gồm 6-12 chiếc và cũng được bao phủ bởi những sợi lông dính để thu hút ong. Cây là một cây mật ong tuyệt vời và cây phấn hoa.
Thích hợp cho những nhà vườn thích trồng các loại cây có hoa dài trong vườn, vì nó có 4-5 đợt ra hoa kéo dài đến giữa tháng 9, loại keo này. Lá của cây này to, dài tới 20 cm. Màu xanh lá cây sáng ở trên, màu xám ở dưới, chúng được thu thập trên cuống lá với số lượng từ 13 đến 25 chiếc.
Cây không ưa sương, chịu sương giá (chịu được nhiệt độ -28 độ), có thể mọc trên mọi loại đất.
Keo bạc
Mimosa, được biết đến với tất cả phụ nữ thời hậu Xô Viết, là cây keo bạc, được coi là có nguồn gốc từ Úc và đảo Tasmania.
Cây thường xanh này có thể cao tới 45m ở khu vực bản địa của nó, nhưng không vượt quá 12m ở các quốc gia khác. Thân cây của nó có màu xám nhạt hoặc nâu với những vết nứt dọc từ đó chảy ra kẹo cao su.
Lá màu xanh xám, xẻ dọc hai lần, mọc xen kẽ trên cuống lá và dài từ 10 cm đến 20 cm. Những bông hoa rất nhỏ, ở dạng quả bóng màu vàng, được thu thập trong các chùm hoa dạng chùm, từ đó hình thành các chùy. Chúng có mùi thơm rất mạnh và dễ chịu.
Hạt keo bạc phẳng và cứng, có thể có màu đen mờ hoặc hơi bóng.
Keo trắng
Robinia, hay cây keo sai trái (Robinia pseudacacia L.) đã bén rễ tốt trên lục địa Châu Âu và quen thuộc với nhiều cư dân của nó. Những bông hoa màu trắng của nó tỏa ra mùi thơm rất nồng và dễ chịu, không chỉ thu hút mọi người mà còn cả ong nữa.
Cây này sống trung bình từ 30 đến 40 năm, vỏ màu nâu, tán tán với lá màu xanh lá cây. Quả keo trắng chín vào tháng 9 - 10 và chỉ rụng vào mùa xuân năm sau.
Keo trong y học
Thành phần hóa học của vỏ cây keo và tác dụng của nó đối với cơ thể vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng ngày nay các loại thuốc sắc từ nó không chỉ được các thầy lang mà cả y học chính thức khuyên dùng. Vì vỏ, hoa và quả của loài cây này thường có độc, chỉ nên sử dụng chúng sau khi hỏi ý kiến bác sĩ và theo liều lượng khuyến cáo.